Ngày nay, dù nhận thức của chúng ta về sang chấn tâm lý hay PTSD (rối loạn tinh thần hậu sang chấn) đã được nâng cao đáng kể, nhưng thái độ của phần lớn mọi người đối với những hiện tượng trên vẫn còn khá mơ hồ. Chúng ta không hình dung được rằng mình hoặc con mình có thể đang mắc phải các chứng rối loạn đó.
Một trong những lý do là vì nhiều người vẫn cho rằng sang chấn chỉ xảy ra với những sự kiện bất thường hay những tai họa thật sự lớn như chiến tranh, chứng kiến một vụ giết người, bị bắt cóc, bị bạo lực học đường, bị xâm hại, chị cha mẹ bỏ rơi… Song, sự thật là, trẻ có thể bị chấn thương tâm lý với những sự kiện mà người lớn cho là chẳng đáng kể như bị té ngã, bị phỏng, đi khám bệnh, chó cắn, chứng kiến cha mẹ cãi nhau, chuyển nhà, thú cưng đột ngột qua đời… Để một sự kiện gây căng thẳng thông thường không để lại những vết thương vĩnh viễn cho trẻ, cha mẹ cần hiểu rõ và hiểu đúng về sang chấn tuổi thơ để có cách “sơ cứu” thích hợp cho con.
Rất nhiều bậc cha mẹ đánh giá mức độ nghiêm trọng của biến cố chỉ dựa trên việc nó gây ra cho đứa trẻ tổn thương nhiều hay ít về mặt vật lý. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc họ không thể xác định được sự kiện gây ra cho con những chấn thương về mặt tâm lý. Một vết xước do va quệt được một số người coi là nghiêm trọng hơn một sự thay đổi lớn về chỗ ở. Cha mẹ hốt hoảng một cách không cần thiết khi thấy con trượt ngã trên sàn, nhưng đồng thời không nhìn thấy nguy cơ sang chấn tiềm tàng của những sự kiện tưởng chừng vô hại như chuyển nhà, cha mẹ bất hòa, đi nhổ răng, chứng kiến người khác bị hành hung…
Theo trang The National Child Traumatic Stress Network, có 5 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng mà sự kiện gây sang chấn có thể tác động lên trẻ (1):
Ngoài ra, tiến sĩ Bruce D. Perry bổ sung thêm yếu tố độ tuổi khi trẻ tiếp xúc với sự kiện. Theo tiến sĩ, trẻ càng nhỏ thì càng dễ bị tổn thương, vì hệ thần kinh của trẻ vẫn chưa phát triển. Một sự kiện sang chấn sẽ để lại vết thương sâu sắc cho một đứa trẻ 2 tháng tuổi, đến nỗi đứa trẻ ấy khó có khả năng bình phục dù sau đó đã được cách ly khỏi môi trường sang chấn và được quan tâm đúng cách.
Vậy, tại sao một sự kiện nhỏ nhoi có thể gây ảnh hưởng lâu dài? Cơ chế của căng thẳng sau sang chấn là gì?
Trong cuốn sách Trauma-proofing your kids (Bảo vệ trẻ trước chấn thương tâm lý), các tác giả đã làm rõ rằng, phản ứng chấn thương tâm lý thực chất là một món quà mà tổ tiên ta đã để lại. Nhờ có phản ứng này mà chúng ta sống sót khỏi những tình huống nguy cấp.
Nói một cách dễ hiểu thì bộ não của chúng ta được chia thành 4 phần, theo thứ tự từ trong ra ngoài là: thân não, não trung gian, hệ viền, vỏ não. Trong đó, phần thân não (mà chúng ta thường gọi là phần não bò sát) chịu trách nhiệm điều hòa nhiệt độ, hô hấp, tim mạch; trong khi các phần khác đảm nhiệm những chức năng “cao cấp” hơn như tưởng tượng, ngôn ngữ, tư duy, cảm xúc, ký ức…
Khi sự kiện sang chấn diễn ra, tất cả các phần não khác đều bị tê liệt, chỉ có phần thân não là còn hoạt động. Đó là lý do mà khi đối mặt với một tình huống nguy hiểm, chúng ta thường có phản ứng đổ mồ hôi, tim đập nhanh, mắt nhìn rõ hơn (vì tập trung tối đa để đánh giá tình huống), các cơ tích tụ năng lượng (để chuẩn bị cho việc chạy thoát). Chúng ta hầu như mất khả năng diễn tả, nói chuyện, tư duy, tưởng tượng, vì toàn bộ năng lượng đều dồn về để tập trung cho nhiệm vụ sinh tồn trước mắt. Phản ứng sang chấn dường như là vô cùng thiết yếu đảm bảo giống loài ta tồn tại. Khi có phản ứng sang chấn, cơ thể chúng ta làm được những điều phi thường mà trong trạng thái bình thường ta không thể làm được.
Song, vấn đề lại nằm ở chỗ, những phản ứng này không dừng lại khi con đã thoát khỏi tình huống nguy hiểm. Trong 4 phần não đã được nhắc đến ở trên, vỏ não chịu trách nhiệm về thời gian – nghĩa là, nhờ phần não này mà ta nhận biết được thời gian, biết được đâu là quá khứ, hiện tại và tương lai. Theo tiến sĩ Bruce Perry, mỗi khi đối mặt với một dấu hiệu gợi nhắc về biến cố, phần vỏ não này sẽ bị tê liệt. Do đó, trẻ không phân biệt được sự kiện sang chấn đã lùi về quá khứ. Trẻ sẽ vẫn có những phản ứng như đang ở trong tâm chấn của sự kiện, như là hoảng sợ, đổ mồ hôi, tim đập nhanh, mất khả năng nói, muốn bỏ chạy…
Theo Trung tâm Kiểm soát và Ngăn chặn bệnh tật, những dấu hiệu tồn tại của căng thẳng sau sang chấn ở trẻ có thể là (2):
Đầu tiên, các bậc cha mẹ cần xác định được nhiệm vụ chính của mình trong việc giúp con phòng tránh cũng như hỗ trợ con vượt qua căng thẳng sau sang chấn (3). Chúng ta cần hiểu rằng đối nghịch với chấn thương tâm lý là sự tự chủ: tự chủ trong phản ứng của cơ thể, tự chủ để nhận diện được rằng sự kiện đó đã qua đi.
Sang chấn là do vô thức, như vậy, nhiệm vụ của các bậc cha mẹ là giúp con lấy lại phần ý thức của mình.
Bạn thấy bài viết thú vị và muốn đọc thêm về Cha, Mẹ & Bé?